VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Đại biểu Quốc hội tỉnh tham gia ý kiến đối với dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo

Thứ Sáu, 21 Tháng Mười Một, 2025 11 lượt xem Chia sẻ bài viết:

Sáng ngày 20/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh Lạng Sơn tham dự phiên thảo luận toàn thể tại Hội trường Diên Hồng về 03 dự án luật trong lĩnh vực giáo dục, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Phát biểu tại hội trường, đại biểu Lưu Bá Mạc, Đoàn ĐBQH tỉnh tham gia góp ý đối với dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Đối với dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), đại biểu đánh giá cao quy định tại khoản 4 Điều 26 về “Giáo dục đại học số” dựa trên nền tảng số, không giới hạn bởi không gian, thời gian, được triển khai qua các hình thức và phương thức đào tạo tại khoản 2 và khoản 3 Điều 26. Đây là định hướng rất tiến bộ, phù hợp với xu thế chuyển đổi số và học tập mở, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng một số nội dung tại các khoản chưa thống nhất, có thể gây khó khăn trong tổ chức thực hiện và đề xuất rà soát, chỉnh lý lại các khoản, cụ thể:

Thứ nhất, khoản 4 cần khẳng định rõ hoạt động đào tạo được tổ chức hoàn toàn trên không gian số, không áp dụng yêu cầu về địa điểm được cấp phép; thay vào đó, cơ sở đào tạo phải đáp ứng các tiêu chuẩn về nền tảng số, an toàn dữ liệu, quản trị và giám sát học tập, xác thực người học và kiểm định chất lượng; thứ hai, giáo dục đại học số cần được xác định là khung tổng thể, trong đó các phương thức đào tạo (trực tiếp, từ xa, kết hợp) được vận hành linh hoạt theo chuẩn kỹ thuật và các điều kiện triển khai, do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; thứ ba, rà soát và chỉnh lý khoản 2 và 3 bao gồm quy định yêu cầu “địa điểm được cấp phép” chỉ áp dụng cho hoạt động đào tạo trực tiếp, còn các hoạt động đào tạo trực tuyến thuộc phạm vi điều chỉnh của khoản 4 (sau khi đã được chỉnh lý).

Đại biểu Lưu Bá Mạc phát biểu thảo luận

Tham gia ý kiến đối với dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, đại biểu tập trung góp ý đối với khoản 1 Điều 4 về chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Theo đó, đại biểu đề nghị cân nhắc bổ sung thêm một số cơ chế như: cơ chế tài chính đặc thù về định mức chi cho hạ tầng số, cơ sở dữ liệu, học liệu số; cơ chế về việc thuê dịch vụ số, nền tảng số của doanh nghiệp trong nước, thay vì chỉ đầu tư trang thiết bị; cơ chế cho phép một số cơ sở giáo dục đại học lớn, đại học quốc gia được chọn làm “hạt nhân” để thí điểm giáo dục đại học số, với mức tự chủ cao hơn về tài chính, tổ chức, nhân sự gắn với trách nhiệm giải trình.

Bên cạnh đó, để ngành giáo dục và đào tạo có thể chủ động hơn trong việc ứng dụng công cụ trí tuệ nhân tạo trong các hoạt động giáo dục, đồng thời có thể bảo mật dữ liệu nhạy cảm, không bị phụ thuộc bởi chính sách của các tổ chức nước ngoài, đại biểu cũng đề nghị cân nhắc, bổ sung thêm nội dung làm rõ hơn cơ chế cho phép xây dựng, phát triển và hoàn thiện hạ tầng trí tuệ nhân tạo AI độc lập, dùng riêng cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chạy trên máy chủ trong nước và không phụ thuộc vào hạ tầng nước ngoài. Hệ thống trí tuệ nhân tạo AI này được huấn luyện bằng dữ liệu tiếng Việt, tri thức Việt Nam, gắn với chương trình giáo dục và chuẩn đầu ra của Việt Nam.

 Diệp Linh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *